WELCOME TO HUYỆN TRÀ BỒNG
DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ
Di tích cuộc khởi nghĩa Trà Bồng nằm ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi, là một di tích lịch sử tiêu biểu, ghi dấu ấn của cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và phong trào đấu tranh của miền Tây Quảng Ngãi vào tháng 8 năm 1959. Đây được xem là một trong những cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân miền Nam chống lại chế độ áp bức của chính quyền Ngô Đình Diệm trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, mở đầu cho làn sóng đấu tranh vũ trang rộng khắp miền Nam Việt Nam
Vị trí: Ở 8 thị xã thị trấn thuộc huyện tây trà và huyện trà bồngxã, th
'Lịch sử hình thành:
Năm 1832 (Minh Mạng thứ 13), khi tỉnh Quảng Ngãi được thành lập, vùng núi rừng phía tây có 4 đơn vị lãnh thổ gọi là nguồn (nguyên), đó là: Đà Bồng (nay là các huyện Trà Bồng, Tây Trà), Thanh Cù (trước đó có tên Cù Bà, nay là 2 huyện Sơn Hà, Sơn Tây), Phụ An (trước có tên Phụ Ba, Phụ Bà Địa, nay là huyện Minh Long), An Ba (nay là huyện Ba Tơ). Đà Bồng lần lượt đổi gọi là Thanh Bồng, rồi Trà Bồng. Đơn vị nguồn cũng đổi thành đồn, rồi châu. Dưới châu có các tổng, dưới tổng là sách. Trước cuộc Cách mạng tháng Tám - 1945, châu Trà Bồng có 3 tổng, 34 sách.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, châu Trà Bồng đổi là huyện Trà Bồng. Các sách được sắp xếp lại thành đơn vị xã, nhập thêm một số làng phía tây huyện Bình Sơn, hình thành 13 xã là Trà Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Thanh, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thuỷ, Trà Sơn, Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình. Năm 1951, 3 xã Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình (nguyên là các làng Xuân Khương, Đông Phú, Vinh Hòa thời Pháp thuộc) giao về lại huyện Bình Sơn, hợp thành xã Bình Lâm.
Từ sau 1954, chính quyền Sài Gòn tiếp quản, đến giữa năm 1958, đổi huyện Trà Bồng thành quận Trà Bồng, đổi tên các xã, nhưng vẫn lấy chữ Trà làm đầu: Xã Trà Xuân đổi thành Trà Khương; xã Trà Giang đổi thành Trà Nhỉ; xã Trà Thuỷ đổi thành Trà Bắc; xã Trà Sơn đổi thành Trà Lang; xã Trà Thanh đổi thành Trà Đoài; xã Trà Lâm đổi thành Trà Binh; xã Trà Lãnh đổi thành Trà Trung; xã Trà Nham đổi thành Trà Thượng; xã Trà Quân đổi thành Trà Hương; xã Trà Khê đổi thành Trà Hoa; xã Trà Phong đổi thành Trà Thạnh. Quận lỵ đặt ở xã Trà Khương, nay là thị trấn Trà Xuân).
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng kháng chiến cắt 4 xã có người Cor sinh sống của huyện Sơn Hà (phía nam núi Cà Đam) là Sơn Thọ, Sơn Hiệp, Sơn Bùi, Sơn Tân nhập vào Trà Bồng, đổi tên thành Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Bùi, Trà Tân. Có thời, các xã đông bắc được cắt thành khu I, các xã quanh núi Cà Đam được tách lập thành khu II, các xã phía tây huyện cắt lập khu IX, trực thuộc vùng căn cứ địa của Tỉnh uỷ.
Sau năm 1975, qua nhiều lần tách nhập các xã và định lại ranh giới các huyện, đến cuối năm 2003, Trà Bồng có 19 xã, thị trấn: Trà Thanh, Trà Khê, Trà Quân, Trà Phong, Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Thuỷ, Trà Sơn, Trà Nham, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Phú, Trà Bình, Trà Tân, Trà Trung, Trà Xinh và thị trấn Trà Xuân.
Cuối năm 2003, 9 xã phía tây huyện (Trà Phong, Trà Quân, Trà Khê, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Xinh, Trà Trung) tách lập thành huyện mới Tây Trà. Huyện Trà Bồng còn lại 10 xã, thị trấn.
Tóm tắt quá trình biến đổi hành chính như vậy cũng đồng thời khẳng định địa danh Trà Bồng gắn với cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi cũng như những truyền thống văn hóa tốt đẹp của mảnh đất mệnh danh là “miền hương quế” là tài sản chung của cộng đồng các dân tộc anh em sinh sống ở huyện Tây Trà và huyện Trà Bồng hôm nay.
Tháng 8 năm 2004, nhân kỷ niệm 45 năm cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi (28/8/1959 – 28/8/2004), Viện Sử học Việt Nam và UBND tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức hội thảo khoa học “Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi” với sự tham gia của nhiều cơ quan khoa học, các nhà sử học, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự, nhiều tướng lĩnh cùng các vị từng là thành viên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Báo cáo tổng kết hội thảo của đại diện Viện Sử học Việt Nam đã khẳng định một số vấn đề về diễn tiến, quy mô, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm từ cuộc khỏi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, tựu trung như sau:
Cuộc khởi nghĩa ở Trà Bồng nổ ra vào rạng sáng ngày 28/8/1959, đầu tiên là ở xã Trà Phong, sau đó nhanh chóng lan đến các xã Trà Khê, Trà Nham, Trà Quân, Trà Lãnh.
Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi nổ ra và giành thắng lợi to lớn là một trong những cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên của đồng bào các dân tộc ở vùng căn cứ miền núi Trung bộ; một cuộc khởi nghĩa mang tính quần chúng rộng rãi, diễn ra trên địa bàn rộng khắp miền núi của tỉnh, có sự tham gia của đồng bào 4 dân tộc anh em Cor, Cà Dong, H're và Kinh.
Thắng lợi của khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi là thắng lợi của quan điểm dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, dùng bạo lực của quần chúng chống lại bạo lực của kẻ thù, từ đấu tranh chính trị chuyển sang kết hợp với các hình thức đấu tranh có vũ trang để tự vệ, từ xây dựng lực lượng chính trị tiến lên xây dựng lực lượng vũ trang, từng bước chiến thắng kẻ thù.
Để tưởng nhớ công lao và sự hy sinh của những người đã chiến đấu và hy sinh trong cuộc khởi nghĩa, chính quyền và người dân địa phương đã quyết định xây dựng Di tích cuộc khởi nghĩa Trà Bồng.
Quần thể di tích khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi gồm nhiều điểm di tích nằm ở 8 xã, thị trấn thuộc huyện Tây Trà và huyện Trà Bồng, đó là các địa điểm: Gò Rô (xã Trà Phong), Nước Xoay (Trà Thọ), đồn Eo Chim (Trà Lãnh), đồn Làng Ngãi (Trà Thọ) đồn Tà Lạt (Trà Lâm), đồn Đá Liếp (Trà Hiệp), đồn Xây dựng (Trà Sơn), Lô cốt trung tâm (thị trấn Trà Xuân)...
Ngày 30/12/1991, Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng Di tích cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi là di tích lịch sử văn hóa quốc gia, tại Quyết định số 2307 – QĐ. Từ 1999, Bảo tàng Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi đã được xây dựng làm nơi trưng bày hình ảnh, hiện vật về cuộc khởi nghĩa. Tại 8 điểm di tích, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã xây dựng các bia bảng hướng dẫn, giới thiệu.
Kiến trúc: Kiến trúc vừa mang nét đặc trưng của miền núi vừa hài hòa với cảnh quan thiên nhiên vùng cao của huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Kiến trúc của di tích được thiết kế với mục đích tôn vinh tinh thần yêu nước của đồng bào dân tộc thiểu số đã tham gia cuộc khởi nghĩa, tạo không gian thiêng liêng để mọi người tưởng nhớ và tri ân.
Tượng đài: Tượng đài là điểm nhấn quan trọng, được thiết kế cao lớn và trang nghiêm, mô phỏng hình ảnh các chiến sĩ khởi nghĩa với dáng đứng kiên cường, thể hiện tinh thần bất khuất, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập dân tộc.
Bức phù điêu: Bức phù điêu chạm khắc các hình ảnh mô phỏng cảnh sinh hoạt, chiến đấu của đồng bào Trà Bồng trong thời kỳ kháng chiến. Phù điêu thường mô tả hình ảnh các chiến sĩ dân tộc Hrê, Cor với vũ khí thô sơ, tượng trưng cho sự anh dũng của các chiến binh.
Khu trưng bày hiện vật:
Nhà trưng bày: Khu trưng bày hiện vật là một công trình kiến trúc rộng rãi, mang nét đơn giản, trang nhã, sử dụng các vật liệu tự nhiên như gỗ và đá để phù hợp với môi trường xung quanh. Nơi đây lưu giữ nhiều hiện vật lịch sử như vũ khí, công cụ chiến đấu thô sơ, và các tài liệu, hình ảnh tư liệu về cuộc khởi nghĩa.
Hiện vật dân gian: Ngoài các vũ khí và công cụ, khu trưng bày còn có các hiện vật dân gian của người dân tộc Hrê, Cor như cồng chiêng, trang phục, đồ dùng sinh hoạt để tái hiện đời sống văn hóa của đồng bào trong thời kỳ khởi nghĩa.
Không gian cảnh quan và bố trí xung quanh:
Cảnh quan thiên nhiên: Di tích được bố trí trong một không gian hài hòa với thiên nhiên, bao quanh là núi đồi và cây xanh, mang lại không khí trong lành, thanh bình. Cảnh quan này giúp tôn lên sự trang nghiêm của di tích, đồng thời tạo cảm giác gần gũi, hòa hợp với thiên nhiên, đúng với tinh thần sống của người dân miền núi.
Lối đi và khuôn viên: Các lối đi trong khuôn viên di tích được lát đá, rải sỏi, hoặc xây bằng các bậc thang tự nhiên dẫn lên các khu vực tưởng niệm, tượng đài và nhà trưng bày, tạo nên không gian yên bình và thiêng liêng cho người đến thăm viếng và tưởng niệm.
Khu vực tổ chức lễ kỷ niệm
Khu tổ chức lễ hội, lễ tưởng niệm được thiết kế để đón tiếp các đoàn khách, đồng thời phục vụ các sự kiện hàng năm như kỷ niệm ngày khởi nghĩa. Khu vực này có không gian mở và rộng rãi, thích hợp để tổ chức các hoạt động tôn vinh, lễ tưởng niệm và các hoạt động truyền thống của người dân địa phương.
Phong cách kiến trúc: Kiến trúc của di tích cuộc khởi nghĩa Trà Bồng mang nét đặc trưng của các công trình tưởng niệm nhưng vẫn giữ phong cách gần gũi, đơn giản, phù hợp với vùng miền núi Trà Bồng. Các vật liệu như gỗ, đá và cây xanh được sử dụng để tạo nên không gian tự nhiên, thân thiện với môi trường, đúng với đời sống và văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây.
Bảo tàng khởi nghĩa Trà Bồng là một phần quan trọng trong quần thể di tích lịch sử cuộc khởi nghĩa Trà Bồng, nằm tại huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Bảo tàng được xây dựng nhằm ghi dấu và bảo tồn ký ức về cuộc khởi nghĩa anh dũng của đồng bào dân tộc Hrê, Cor và các dân tộc thiểu số khác tại miền Tây Quảng Ngãi vào tháng 8 năm 1959. Đây cũng là nơi lưu giữ các hiện vật, tư liệu lịch sử, phục vụ công tác giáo dục truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh vì tự do của nhân dân Việt Nam.
Kiến trúc:
Có kiến trúc độc đáo, kết hợp giữa các yếu tố truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi và sự hiện đại của các công trình bảo tàng. Kiến trúc của bảo tàng mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao, tạo nên không gian phù hợp với bối cảnh lịch sử và thiên nhiên Trà Bồng.
Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại:
Bảo tàng Khởi nghĩa Trà Bồng được thiết kế theo phong cách hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, với các công trình sử dụng vật liệu tự nhiên như gỗ, đá, và mái tranh, tạo cảm giác gần gũi, mộc mạc nhưng vẫn đầy đủ tiện nghi và tính hiện đại cho công tác trưng bày, bảo quản hiện vật.
Kiến trúc địa phương: Các công trình trong khuôn viên bảo tàng có ảnh hưởng sâu sắc từ kiến trúc truyền thống của các dân tộc thiểu số tại Trà Bồng như Hrê và Cor. Các mái nhà thường có thiết kế đặc trưng của nhà sàn, với phần mái dốc cao, tạo cảm giác vững chãi và ấm cúng.
Khu vực trưng bày:
Không gian trưng bày mở:
Các phòng trưng bày hiện vật của bảo tàng được thiết kế thông thoáng, với ánh sáng tự nhiên và không gian rộng rãi để tạo cảm giác gần gũi, dễ tiếp cận cho người tham quan. Không gian mở cũng giúp trưng bày các hiện vật một cách sinh động, tạo điểm nhấn cho mỗi khu trưng bày.
Bảo tàng ngoài trời: Một phần của bảo tàng được thiết kế như một không gian ngoài trời, nơi trưng bày các hiện vật lớn, bao gồm các vũ khí chiến đấu, mô hình nhà sàn và các công cụ lao động truyền thống của đồng bào.
Tượng đài khởi nghĩa:
Tượng đài trung tâm của bảo tàng là một trong những điểm nổi bật, thể hiện hình ảnh các chiến sĩ, đồng bào miền núi đứng lên chống lại chế độ Ngô Đình Diệm. Tượng đài được xây dựng với kích thước lớn, có tác dụng tôn vinh và khắc ghi tinh thần kiên cường của những người tham gia cuộc khởi nghĩa.
Khu vực lễ tưởng niệm: Bảo tàng còn có khu vực tổ chức các lễ kỷ niệm, tưởng niệm các anh hùng, chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Trà Bồng. Khu vực này được bố trí trang nghiêm, với cây xanh, đường đi bộ và các bức phù điêu tái hiện những trận chiến lịch sử.
Hòa hợp với thiên nhiên:
Toàn bộ khuôn viên bảo tàng được bố trí trong không gian thiên nhiên xanh mát, bao quanh là cây cối, đồi núi, tạo nên một cảnh quan thanh bình, yên tĩnh, thể hiện sự kết nối hài hòa giữa di tích lịch sử và thiên nhiên. Các lối đi, khuôn viên xung quanh bảo tàng được lát đá, tạo không gian cho du khách tham quan, tìm hiểu lịch sử.
Cảnh quan mở: Khuôn viên của bảo tàng không chỉ là nơi trưng bày mà còn là không gian mở, thích hợp cho các hoạt động văn hóa, giao lưu cộng đồng, giúp bảo tàng trở thành một địa điểm sinh hoạt văn hóa của người dân địa phương.
Vật liệu truyền thống: Các công trình trong bảo tàng sử dụng vật liệu tự nhiên như gỗ, đá và các vật liệu xây dựng địa phương để phù hợp với không gian miền núi. Những vật liệu này không chỉ tạo nên vẻ đẹp mộc mạc, gần gũi mà còn thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa người dân Trà Bồng với thiên nhiên và đất đai quê hương.
Mái nhà sàn: Một trong những đặc điểm nổi bật của kiến trúc bảo tàng là mái nhà sàn, một yếu tố kiến trúc đặc trưng của các dân tộc thiểu số miền núi như Hrê, Cor. Mái nhà sàn không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hóa mà còn tạo ra một không gian mát mẻ, thoáng đãng, thích hợp cho điều kiện khí hậu của vùng miền núi.
Giá trị văn hoá:
Khôi phục ký ức lịch sử: Bảo tàng giúp tái hiện và bảo tồn ký ức về một trong những cuộc khởi nghĩa quan trọng của miền Nam Việt Nam, đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đây là nơi ghi lại những sự kiện, câu chuyện về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ và đồng bào Trà Bồng.
Giá trị tượng trưng: Bảo tàng không chỉ là nơi lưu giữ hiện vật mà còn là một biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Trà Bồng, những người đã dũng cảm đứng lên chống lại sự áp bức, bảo vệ quyền lợi của cộng đồng và đất nước.
Bảo tồn văn hóa dân tộc: Bảo tàng cũng là nơi lưu giữ các yếu tố văn hóa đặc trưng của đồng bào dân tộc Hrê, Cor và các dân tộc thiểu số ở miền núi Trà Bồng. Những hiện vật, đồ dùng sinh hoạt, trang phục truyền thống và mô hình nhà ở của đồng bào địa phương giúp khách tham quan hiểu rõ hơn về phong tục tập quán, đời sống văn hóa của các cộng đồng dân tộc thiểu số miền núi.
Khôi phục và bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể: Bảo tàng cũng đóng góp vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể như những câu chuyện truyền miệng, các lễ hội, âm nhạc, nhảy múa, và nghệ thuật truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số trong khu vực.
Thu hút du khách: Bảo tàng Khởi nghĩa Trà Bồng cũng có giá trị trong việc phát triển du lịch văn hóa, thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và con người Quảng Ngãi. Việc kết hợp du lịch với giáo dục lịch sử giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị di sản văn hóa, đồng thời đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương.
Lễ hội và sự kiện văn hóa: Bảo tàng còn là trung tâm tổ chức các sự kiện văn hóa, hội thảo, lễ hội truyền thống, tạo cơ hội cho du khách trải nghiệm các hoạt động văn hóa, nâng cao sự hiểu biết về các dân tộc thiểu số ở miền núi Trà Bồng.
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
Nghệ thuật trang trí cây nêu của người Cor là một phần không thể thiếu trong các nghi lễ truyền thống, thể hiện nét văn hóa độc đáo của dân tộc này. Cây nêu của người Cor không chỉ là biểu tượng tâm linh, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật chứa đựng nhiều ý nghĩa văn hóa và tín ngưỡng.
Lịch sử hình thành:
Nghệ thuật trang trí cây nêu của đồng bào dân tộc Co (Quảng Ngãi) tồn tại và phát triển gắn liền với lễ hội ăn trâu từ ngàn năm trước, được truyền từ đời này sang đời khác. Nghệ thuật trang trí cây nêu cũng thể hiện bản sắc văn hóa, mang đậm dấu ấn của cộng đồng dân tộc Co.
Cách trang trí cây nêu:
Cây nêu của người Co thường có 3 loại, ứng với mỗi sinh hoạt văn hóa xã hội khác nhau. Nhưng cao nhất là cây nêu được dựng vào ngày Tết Ngã rạ (cao khoảng 10 - 15m).
Phần thân cây nêu được trang trí hoa văn 2 màu đen, đỏ tượng trưng cho trời và đất. Thân cây nêu còn được treo những bộ Gu (bằng gỗ có vẽ hoặc điêu khắc những hình ảnh hay họa tiết mang yếu tố tâm linh của người Co) và mâm thờ.
Bộ Gu chỉ có ở tộc người Co. Có thể coi đây là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tạo hình và hội họa dân gian đặc sắc. Cùng với bộ Gu, cây nêu còn được treo những con chim chèo bẻo gỗ. Trên đỉnh cây nêu cũng có gắn một con chim chèo bẻo. Đây là hình tượng một loài chim luôn bắt sâu, châu chấu, cào cào để bảo vệ cây lúa. Người dân tộc Co coi chim chèo bẻo là chim trời do thần linh phái xuống giúp họ. Chính vì thế, người Co không bao giờ săn bắt hay ăn chim chèo bẻo.
Mỗi khi dựng cây nêu, người Co phải làm lễ cúng với những nghi thức rất thiêng liêng. Cây nêu là cầu nối tinh thần của người Co với thần linh. Có những bài cúng trong những bước khác nhau khi ghép nối cây nêu hoặc khi treo những bộ Gu. Nghi lễ dựng cây nêu chỉ có ở người Co.
Giá trị văn hoá:
Cây nêu đóng vai trò là cây cầu nối giữa con người và thế giới thần linh, là biểu tượng của niềm tin vào sự bảo hộ và chở che từ tổ tiên, các vị thần và linh hồn của thiên nhiên. Trong các dịp lễ hội quan trọng như lễ cúng tổ tiên, lễ mừng lúa mới, hay lễ xua đuổi tà ma, cây nêu được dựng lên như một vật linh thiêng, giúp người Cor bày tỏ lòng tôn kính và biết ơn với các đấng thiêng liêng. Điều này phản ánh tín ngưỡng phồn thực, thờ cúng tổ tiên và tôn trọng sự cân bằng của vũ trụ trong văn hóa Cor.
Lễ dựng cây nêu là dịp quan trọng để cả cộng đồng người Cor cùng nhau tham gia, gắn kết và chia sẻ. Trong những ngày lễ, mọi người tụ họp, cùng chuẩn bị, cùng dựng cây nêu và thực hiện các nghi thức chung. Điều này giúp xây dựng tình đoàn kết, tạo nên sự hòa hợp giữa các thành viên và củng cố bản sắc cộng đồng. Cây nêu trở thành biểu tượng của sự thống nhất và tinh thần cộng đồng trong văn hóa của người Cor.
Nghệ thuật trang trí cây nêu của người Cor rất phong phú và đa dạng, thể hiện qua các họa tiết, hoa văn truyền thống và các biểu tượng tự nhiên. Những họa tiết như mặt trời, trăng, chim, rắn và các hình dạng khác được khắc họa công phu, biểu trưng cho các yếu tố thiên nhiên và sự hài hòa với môi trường sống. Đây không chỉ là nghệ thuật trang trí mà còn là sự truyền tải những giá trị thẩm mỹ độc đáo, góp phần làm phong phú kho tàng nghệ thuật dân gian của dân tộc.
Trong bối cảnh hiện đại hóa và toàn cầu hóa, cây nêu và các giá trị văn hóa truyền thống của người Cor cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Những lễ hội truyền thống gắn liền với cây nêu không chỉ là dịp để người Cor tái hiện và lưu giữ những giá trị truyền thống mà còn là cơ hội để quảng bá văn hóa của mình đến với các dân tộc khác, từ đó góp phần vào sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam.
Lễ hội cồng chiêng:
Trong kho tàng văn hóa của dân tộc Cor, nghệ thuật cồng chiêng là một sinh hoạt văn hóa rất đặc trưng, thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc Cor. Nghệ thuật cồng chiêng của dân tộc Cor ở Trà Bồng có lịch sử lâu đời, được bắt nguồn từ truyền thống sinh hoạt văn hóa cồng chiêng trong các lễ hội tiêu biểu với những bài chiêng và cách thức diễn tấu đã đạt đến trình độ cao về nghệ thuật và kỹ thuật.
Do đó, nghệ thuật cồng chiêng của dân tộc Cor có tính đại diện, thể hiện được bản sắc văn hóa của cộng đồng, mang đậm dấu ấn và sức sống riêng của dân tộc Cor.
Lịch sử hình thành:
Lễ hội cồng chiêng của người Cor ở Trà Bồng bắt nguồn từ các nghi lễ nông nghiệp, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tôn thờ các vị thần thiên nhiên. Người Cor tin rằng thần linh và tổ tiên luôn hiện diện để bảo vệ và ban phước lành cho dân làng. Lễ hội cồng chiêng thường diễn ra vào các dịp quan trọng như lễ mừng lúa mới, lễ cúng tổ tiên, lễ hội xua đuổi tà ma, nhằm tạ ơn và cầu phúc cho mùa màng bội thu, cuộc sống bình yên.
Theo truyền thuyết và truyền thống dân gian, cồng chiêng được coi là nhạc cụ linh thiêng, có khả năng kết nối con người với thế giới thần linh. Âm thanh của cồng chiêng tượng trưng cho tiếng nói của con người gửi đến thần linh, mang theo các thông điệp cầu nguyện, tạ ơn và mong muốn bình an.
Hoạt động:
Nghi lễ cúng tế
Lễ hội cồng chiêng thường bắt đầu bằng nghi lễ cúng tế thần linh và tổ tiên để cầu mong sự bảo hộ, mùa màng bội thu, và cuộc sống bình yên cho cộng đồng. Người chủ lễ, thường là già làng hoặc những người cao niên có uy tín, sẽ đại diện cộng đồng thực hiện các nghi thức cúng bái trang nghiêm. Trong nghi lễ này, các lễ vật như lợn, gà, rượu cần và nếp cẩm sẽ được chuẩn bị kỹ lưỡng để dâng lên các vị thần linh.
Diễn tấu cồng chiêng là hoạt động trung tâm của lễ hội. Dàn cồng chiêng sẽ được các nghệ nhân trong làng biểu diễn với các bài nhạc mang đậm nét văn hóa truyền thống. Âm thanh của cồng chiêng vang lên đều đặn, hòa quyện tạo nên bầu không khí thiêng liêng và sôi động. Mỗi nhịp điệu cồng chiêng đều mang ý nghĩa riêng, thể hiện các thông điệp như cầu bình an, tạ ơn mùa màng, xua đuổi tà ma, và kết nối con người với thế giới thần linh.
Múa xoang là một phần không thể thiếu trong lễ hội cồng chiêng, với các điệu múa tập thể diễn ra xung quanh khu vực diễn tấu cồng chiêng. Được thực hiện bởi cả nam và nữ, múa xoang là một điệu múa truyền thống mang đậm nét văn hóa dân gian của người Cor, thể hiện niềm vui và lòng biết ơn với tổ tiên và thần linh. Ngoài ra, các điệu múa dân gian khác cũng có thể được biểu diễn, góp phần làm phong phú thêm không khí lễ hội.
Uống rượu cần là một hoạt động gắn liền với các lễ hội truyền thống của nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có người Cor. Trong lễ hội cồng chiêng, mọi người sẽ quây quần bên chum rượu cần, cùng nhau uống và trò chuyện. Rượu cần không chỉ là thức uống mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết, chia sẻ và gắn bó cộng đồng. Mọi người sẽ lần lượt uống rượu và chúc nhau sức khỏe, bình an và hạnh phúc.
Các trò chơi dân gian là một phần quan trọng, góp phần làm tăng không khí vui tươi, sôi động trong lễ hội. Một số trò chơi thường thấy trong lễ hội cồng chiêng bao gồm kéo co, đi cà kheo, ném còn, và đánh đu. Các trò chơi này thu hút sự tham gia của nhiều người, đặc biệt là thanh niên và trẻ em, tạo ra không gian vui chơi, giải trí lành mạnh và góp phần gắn kết cộng đồng.
Trong lễ hội, các nghệ nhân lớn tuổi sẽ truyền dạy cho thanh niên và thiếu niên cách chơi cồng chiêng, cách sử dụng nhạc cụ truyền thống và ý nghĩa của từng nhịp điệu. Đây là một phần quan trọng nhằm bảo tồn di sản văn hóa và truyền dạy những giá trị văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ. Hoạt động này giúp thanh niên hiểu rõ hơn về giá trị của cồng chiêng và truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Một số lễ hội cồng chiêng cũng tổ chức trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, trang phục truyền thống, và những vật phẩm đặc trưng của người Cor. Đây là cơ hội để du khách và người tham gia hiểu hơn về văn hóa, phong tục tập quán và đời sống của người Cor ở Trà Bồng. Các gian hàng trưng bày cũng giúp quảng bá các sản phẩm đặc trưng, tạo thêm nguồn thu nhập cho người dân địa phương.
Đôi khi, trong lễ hội cồng chiêng, các cộng đồng dân tộc thiểu số khác cũng được mời tham gia để biểu diễn và giao lưu văn hóa. Đây là cơ hội để người Cor giới thiệu di sản văn hóa của mình với các dân tộc khác, đồng thời học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, và tạo sự gắn bó, đoàn kết giữa các dân tộc anh em.
Giá trị văn hoá:
Lễ hội cồng chiêng là một dịp để người Cor thể hiện lòng thành kính và biết ơn đối với thần linh, tổ tiên, và các lực lượng siêu nhiên. Người Cor tin rằng thần linh và tổ tiên luôn hiện diện để bảo vệ và mang lại bình an cho cộng đồng. Âm thanh của cồng chiêng được xem là "tiếng nói" kết nối giữa con người và thế giới thần linh, mang theo các lời cầu nguyện, tạ ơn và lời chúc phúc. Qua đó, lễ hội cồng chiêng góp phần củng cố niềm tin tâm linh, giúp người Cor cảm thấy yên tâm và bình an trong cuộc sống.
Lễ hội cồng chiêng là biểu tượng của bản sắc văn hóa người Cor và các dân tộc Tây Nguyên nói chung. Đây là dịp để cộng đồng người Cor thể hiện sự độc đáo trong phong tục, tập quán và văn hóa của mình. Lễ hội cồng chiêng đã trở thành một dấu ấn đặc trưng, góp phần khẳng định sự tồn tại và phát triển của người Cor trong lòng dân tộc Việt Nam. Việc bảo tồn lễ hội cồng chiêng không chỉ giúp duy trì bản sắc dân tộc mà còn giúp người Cor tự hào và nhận thức sâu sắc về giá trị văn hóa của mình.
Lễ hội cồng chiêng là dịp để người Cor tụ họp, chia sẻ niềm vui, cùng nhau cầu nguyện và tham gia các hoạt động tập thể. Đây là cơ hội để mọi người giao lưu, gắn kết và củng cố tình cảm cộng đồng. Các hoạt động như múa xoang, uống rượu cần, và chơi các trò chơi dân gian không chỉ giúp tạo không khí vui tươi mà còn tăng cường sự đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng. Tinh thần cộng đồng này là một giá trị văn hóa quan trọng, giúp người Cor duy trì mối quan hệ bền chặt trong cuộc sống.